Thơ tạo sinh nghĩa Mai Văn
Phấn
Hồ
Thế Hà
Tiếp cận
thi giới Mai Văn Phấn theo trục lịch đại từ tập thơ đầu tiên: Giọt nắng đến tập thơ mới nhất: Bầu trời không mái che, tôi càng xác tín
một điều rằng, ngoài sự hiển minh nghĩa của sáng tạo văn học và tiếp nhận văn
học, thi ca lại liền tiếp tục mở ra khả năng tạo nghĩa bất ngờ theo từng tầm
đón đợi khác nhau của từng chủ thể tiếp nhận, đặc biệt đối với chủ thể tiếp nhận đồng sáng tạo. Những
khoảng trống vô thức của cả hai phía tác giả và độc giả sớm muộn gì cũng sẽ
hiện lên thành giá trị ngữ nghĩa – tư
tưởng mới mẻ, kỳ thú từ chính quan hệ chỉnh thể của tác phẩm mang lại mà ở
đó, ngôn ngữ là bà chúa của khả năng tạo sinh nghĩa do người nghệ sĩ xây dựng
nên. Chiếu theo khả năng tạo sinh nghĩa ấy, thơ Mai Văn Phấn đã, đang và sẽ còn
vẫy gọi liên chủ thể tiếp nhận để không ngừng phát hiện những hình thức mang
tính quan niệm độc đáo, làm đầy hành trình chữ
và nghĩa trong thơ anh.
Trước khi
đi vào vườn thơ quen thuộc nhưng kỳ bí, ảo ẩn của Mai Văn Phấn, đặc biệt là các
tập thơ mới xuất bản từ Hôm sau (NXB
Hội Nhà văn, 2009) đến Bầu trời không mái che (NXB Hội Nhà văn,
2010), tôi phải mượn lời của Hoài
Thanh trong Thi nhân Việt Nam khi
nhận định về thơ Bích Khê – thi sĩ thần
linh (chữ dùng của Hàn Mặc Tử) để quy chiếu lên thơ Mai Văn Phấn thì mới
mong người đọc bỏ qua cho những bất cập trong việc đọc – hiểu của mình về thơ anh: “…Còn các bài khác hoặc chưa xem
hoặc mới đọc có đôi ba lần. Mà thơ Bích Khê, đọc đôi ba lần thì cũng như chưa
đọc”. Quả là có sự thật này như Hoài Thanh cảm nhận về thơ Bích Khê khi tôi đọc
thơ Mai Văn Phấn. Nhưng rồi, tôi tự trấn tĩnh rằng phải cố lần vào bên sau, bên
sâu, bên xa của câu chữ thì mới mong hiểu được nghĩa ẩn chìm của văn bản. Điều
này là do Thông diễn học mách bảo cho
tôi. Thông diễn học là khoa học nghiên cứu về hoạt động hiểu và diễn đạt (bao
gồm diễn giải và tái diễn giải) đúng đắn những gì đã hiểu (8;313). Vậy, những
gì tôi tường giải về thơ Mai Văn Phấn sau đây có thể xem là một trong những
cách hiểu và diễn đạt của riêng tôi. Những người tiếp nhận khác sẽ có cách
thông diễn riêng của mình.
Càng về
sau, Mai Văn Phấn càng ý thức thể hiện tâm thức hậu hiện đại trong sáng tạo
thông qua hệ ngôn từ và hình ảnh lạ đã làm cho thơ anh không dễ đọc, không dễ
hiểu ngay tức thì. Và đó cũng chính là điều làm nên thi pháp riêng Mai Văn
Phấn. Cái chung được biểu hiện kết tinh và đa dạng qua nhiều cái riêng đã làm
cho trữ lượng thơ anh qua các giai đoạn càng lấp lánh, tỏa phát. Mai Văn Phấn
là một hiện tượng riêng của nền thơ đương đại Việt Nam – mà là hiện tượng riêng, liên tục lấp lánh và mới
lạ. Ý thức đổi mới thi ca luôn thường trực trong từng cảm giác bé nhỏ của chính
người thơ mà anh tự gọi là “vong thân” – tức phủ định bản ngã thi sĩ trước đó
của mình để được tồn tại trong một trạng thái tình cảm luôn luôn mới và trong
một dạng thái ngôn ngữ luôn luôn khác - nghĩa là luôn luôn tạo sinh nghĩa - đã
làm cho thế giới thơ Mai Văn Phấn không ngừng vận động, không ngừng phá và thay. Trong bài viết ngắn này, tôi muốn tìm hiểu (theo cách của
mình) thi giới Mai Văn Phấn ở hai bình diện đặc sắc: Hình tượng và Nghĩa, Chữ và Nghĩa.
1. Thế giới hình tượng và khả năng tạo sinh nghĩa
Thế giới
hiện thực trong thơ Mai Văn Phấn vẫn là thế giới như khách quan vốn có đó thôi,
nhưng nó không còn là nó nữa, mà được khúc xạ qua từng trạng thái tình cảm và
sự “nghiền ngẫm hiện thực” của chính người thơ. Anh nhìn cuộc đời bằng đôi mắt
của người thám hiểm, thổi vào sự vật, hiện tượng một nội dung và ý nghĩa mới
theo từng trạng thái tình cảm của mình. Có lúc, anh xóa bỏ ý nghĩ, để nó tự
buông xuôi theo dòng cảm giác, ảo giác. Đến như căn nhà quen thuộc của anh, anh
cũng nhìn nó bằng chập chờn, nhòa nhạt: “Pha
xong ấm trà – Quay ra – Ông khách không còn ở đó – Gọi điện thoại – Người nhà
bảo ông mất đã bảy năm – Nhầm lẫn (…) Nhà mình - Mọi sự đảo lộn – Không nhớ bức
chân dung hạ xuống bao giờ - Đâu rồi chiếc đồng hồ chạy bằng dây cót? – Bộ ấm
chén giả cổ ai cho?” (Vẫn trấn tĩnh tiễn
khách ra ngõ).
Mai Văn
Phấn quan niệm: “Nội dung mới trong thơ tôi là những quan tâm mang tính thời
đại và thời sự, như lý tưởng sống của thế hệ trẻ, vấn đề ý thức hệ, quan niệm
về tự do, công bằng, dân chủ… Tôi đau đáu và trăn trở về đời sống khổ cực của
những người dân nghèo đói, khao khát cho dân tộc tôi không thua kém bất kỳ dân tộc
nào. Nội dung ấy phải được dung chứa trong hình thức mới của thi ca. Hình thức
mới ấy nằm trong nhịp điệu, tiết tấu nhanh trong chuyển động tốc độ của đời
sống hiện đại. Cách diễn đạt dứt khoát, tối giản, liên kết rời và xa nhau tạo
cho thơ một hơi thở mới, người phương Đông chúng ta quen gọi là “Khí”. Theo
tôi, “Khí” làm nên cốt cách thi sỹ và phân biệt được các thế hệ thi ca”. Và anh
đã biết làm mới hiện thực, cho hiện thực chuyển động với “tốc độ đời sống hiện
đại”:
Con sơ sinh trên đất
Bơi qua sông con nòng nọc đứt đuôi
Tập vỗ cánh, quạt gió vào lòng tổ
Bật lá mầm bay đi thênh thang
Hơi nước bến sông
Không gian đặc và thời gian nhầm lẫn
Ngọn khói lên cao
Biết mình bơi trong biển sương
Không phải sương mà đang mưa
Ngọn tháp cao sáng láng
(Cửa Mẫu I)
Mọi cái hình như không thể tin ở mắt nhìn
thông thường, anh muốn nhìn chúng bằng cái nhìn ảo ẩn, xa lạ và nghi vấn:
Nhưng
hình như
Mọi con vật trong nhà
Vẫn chế tác từ đồ phế thải:
Con mèo tam thể được sinh ra từ mớ giẻ
rách?
Cá bơi trong bể được gò hàn từ vỏ lon
beer?
Chim họa mi hót trong lồng là chiếc ấm
vỡ
(Không thể tin)
Đó là thế giới của sự va chạm, bất ổn, nhiều khi vô nghĩa lý mà con
người đã kịp nhận ra trong khoảnh khắc ảo giác. Những hình ảnh siêu thực, vô
thức như thế, đã trở thành những hình tượng mang nghĩa bất ngờ. Mọi vật có thể
“Làm vòm cây tái tạo nên anh - Tóc em
bóng râm cội rễ - Thân cây cao vút thẳng đứng - muốn bứt lên - trong chênh lệch
những miền áp thấp - trong lay giật - muốn bứt lên trong hơi nóng cơ thể - đẩy
từ lòng đất - từ cốt tủy ngủ sâu tụ khí – phù trợ những sinh linh – Gạn từ em –
được chiết từ em – anh hiện hữu – và không hiện hữu (Anh anh em em).
Ngay như trong ngôi nhà của mình, khi bừng tỉnh dậy, mọi vật đều đã không
còn là chúng nữa. Chúng quay tròn theo mái nhà, chúng bị đánh thức theo tiếng
vọng từ cõi âm của những nghệ nhân đã khuất hiện về mách bảo: “Những đồ vật quay không thể dừng lại. Thùng
rác quay mắc phải khung ảnh, quạt trần, giây điện thoại. Chiếc quần lót mắc kẹt
giữa tủ bát dĩa và máy tập thể hình, chổi cùn, bình diệt muỗi, đĩa CD chui vào
tủ lạnh. Con cá tắt thở trên đường gần đến cửa sổ. Lũ chuột nhắt chết đuối bơi
qua chảo mỡ. Bột giặt vừa quay vừa rắc lên hoa quả, dao thớt, bàn thờ. Bát nước
chấm quay cùng bìa đậu phụ. Lọ tương ớt lao đi trong tư thế lộn ngược. Và kim
giây quay chậm hơn hẳn kim giờ” (Quay theo mái nhà).
Những sự vật vốn quen thuộc hằng ngày, Mai Văn Phấn lại coi chúng như
những sinh thể và tự mình nhìn ngắm, tưởng tượng để phát hiện ra bên sau mỗi sự
vật hiện tượng là một tồn tại tự thân, nhưng con người nhận thức về chúng lại
là một quá trình đa phức để tạo thành những quan hệ, những giá trị ngữ nghĩa mà
có người gọi là sự “thay đổi tín hiệu trong văn học”, nó kích thích ở người
thưởng thức khả năng cảm nhận từ từ hơn là đi tìm ý nghĩa tức thời. Đó chính là
dư vị, dư vang thi ca mà không phải bất kỳ nhà thơ nào cũng kịp nhận ra. Thơ
Mai Văn Phấn thường tạo ra “sự vô nghĩa hợp lý” (Chế Lan Viên) ấy một cách nên
thơ, tạo thành tính thơ, tính nghệ thuật hay còn gọi là chất thi ca mà R.Jakobson luôn đề cao:
Chiếc bút trên bàn. Khi dọn dẹp vẫn muốn để lại.
Cầm bút thư giãn, vừa lạ vừa quen. Quản bút nhẵn ngón tay cầm. Đôi
khi tháo ruột bút xem (phải tháo trộm vì hành vi quái đản). Mở nắp bút như bật
cánh cửa, cậy nắp hầm tối... Cảm giác chợt thức, chợt mở mắt. Muốn tháo nắp bút
một nơi. Nắp bút để trên, thân bút bên phải hay ở dưới. Cả ngược lại.
Mở…
Lắp…
Lăp…mở…
Lắp lại…
Cây bút ngay ngắn bình yên
(Nhịp II - Hình Đám Cỏ)
Cứ thế, những trạng thái đảo lộn, biến ảo và rạn vỡ của sự vật và con
người được tác giả thông điệp một cách khẩn thiết. Những trạng thái đó còn tiếp
diễn thì càng cảnh báo những bất an khác rồi sẽ đến. Con người không làm chủ,
không tiên cảm tương lai thì họ có thể sẽ trở thành nô lệ của thế giới đồ vật
và thiên nhiên. Đó phải chăng là cảm thức hiện sinh của con người thời hiện
đại, luôn hồi hộp và âu lo trước dòng đời luôn bộn bề, tất bật, trước những
chấn động dữ dội của vũ trụ?
Lưỡi tôi bị thắt
treo lên đỉnh cột
mỗi lần nói
chiếc lưỡi phải co rút
kéo thân thể béo ị lên cao
Tôi giẫy giụa tựa mảnh vải quẫy trong gió
mạnh.
Đang nghĩ về chiếc lưỡi đau
Chợt cánh bướm mọc trên bờ đá
Cánh hây hây run rẩy cả chân kè
Rồi tấm biển quảng cáo nước uống tăng lực
có gas phun sương mù và chất lượng cao
Nơi lãng mạn khác
thiếu nữ vặn lưng trong bìa lịch
miệng cười tươi và giơ tay rất lâu.
Tôi tồn tại bởi cánh bướm, biển quảng cáo
và thiếu nữ không quen biết
Họ nói giùm tôi cuống lưỡi vực sâu.
(Ở những đỉnh cột )
Ngay giữa thế giới hiện hữu hằng
ngày, quy luật của cuộc sống con người là không ngừng mơ ước và khám phá những
điều tốt đẹp, nhưng rồi sự hoàn hảo ấy có thể trở thành mong manh, bé nhỏ và
phân ly trước những ngọt ngào giả dối của thiên nhiên – hay chính thiên nhiên
cũng đang giả dối chính mình. Đọc thơ Mai Văn Phấn, quá trình chuyển nghĩa luôn
mở ra cho người tiếp nhận những khả năng khác nhau thông qua từng hình tượng
thơ:
Biển đang
vượt cạn
Con mực, con sao trôi sang kiếp khác
Đổi chiều những dòng hải lưu
Mặt nước xẹp
Anh đứng nơi bờ cát đang nứt
Đôi tất nâu không còn cuộn trong giày
Cặp kính mát nằm xa chiếc mũ
Nín thở biết gần kho báu
Lần tìm, cố xoay từng cánh cửa nước.
(Nhịp VI - Hình Đám Cỏ)
Chính vì phải chứng kiến những bất ổn và mong manh ấy của cuộc sống mà
con người lại có cách hóa giải nỗi đau riêng cho mình để họ không ngừng được
sống trong những khát vọng người đầy nhân bản và vị tha. Và cũng chính có thơ
mới nói hộ và lưu giữ hộ cho họ những khát vọng ấy một cách nghệ thuật và xúc
động nhất:
Giữa em là anh
một con hoẵng vừa sinh trên cỏ ướt
một bát nước ngùn ngụt bốc hơi
một thế giới đang vội vàng hoàn hảo
(Nhịp VI - Hình Đám Cỏ)
Niềm tin khác lại hiện lên lấp lánh lời giải đáp về những điều thầm lặng
mà kỳ lạ để chiến thắng những hệ lụy, bất an:
Luôn tin có em trong miệng anh
Nơi không chiến tranh, dịch hạch
Mũi tên bắn lén tẩm độc
Thị phi, cạm bẫy, lọc lừa
Lối em đi không còn gai nhọn
Bão tràn qua anh dựng tường ngăn
Bình yên trong miệng anh
Em thúc nhẹ bờ vai
Vòm ngực, ngón chân vào má
Huyên thuyên và hát thầm
Hồn nhiên cho lưỡi và răng anh chạm vào
cơ thể
Anh là con cá miệng dàn dụa trăng
Rời bỏ bầy đàn quẫy vào biển động
(Ngậm em
trong miệng)
Mai Văn Phấn còn đẩy những hình tượng đến một trạng thái tồi tệ hơn nữa
khi con người có thể tha hóa thành cái khác: “Chúng bịt miệng - trấn lột mọi thứ - và xin tôi bộ phận sinh dục - Nói
rằng xin - bởi nếu tôi không đồng ý - của quý kia phải liệng xuống hố phân
(chúng biết cả bí quyết thần chú) - Tôi bảo: các ông có thể lấy hết - nhưng cho
tôi giữ lại chút riêng - xin tự nguyện làm đồ chơi, giẻ lau, trâu chó” (Chỉ
là giấc mơ). Cứ thế, con người có lúc
trở thành vô tâm, vô cảm: “Lưỡi tôi bị
thắt – treo lên đỉnh cột - mỗi lần nói - chiếc lưỡi phải co rút - kéo thân thể
béo ị lên cao - tôi giãy giụa tựa mảnh vải quẫy trong gió mạnh” (Ở những
đỉnh cột).
“Thơ đang chuyển động trong một thế giới đa chiều, đa cực. Trách niệm
của mỗi nhà thơ là phải khám phá cho được không gian nghệ thuật của chính mình,
nếu thực sự muốn tồn tại trong không gian mới của thời đại. Cách lập ngôn của
nhà thơ không đơn thuần là giọng nói, mà chính là cách thiết lập không gian”
(6; 375). Hình tượng không gian nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn thể hiện sự rạn vỡ
trong giao hòa, sự bất ổn trong trật tự. Trong không gian đó, con người luôn
phấp phỏng, âu lo:
Bóng cây òa vỡ dưới chân
Hình bản đồ rách nát?
Hay xác chết nửa dơi nửa chuột?
Con hốt hoảng đan lưới sắt
Đặt bàn chông quanh mình
Mài con dao
Thủ sẵn bao diêm
Chân trời càng gần
Bóng tối càng trôi khủng khiếp
Nhanh hơn cảm xúc
Con vẫn dồn lo âu, tranh tức
Trên mặt đất bóng đêm đã xóa sạch
(Cửa Mẫu
IV)
Không gian thực đang đổ vỡ, nhà thơ khao khát đi tìm không gian đã mất –
để may ra một không gian tinh thần tốt đẹp khác sẽ tái sinh mầu nhiệm nhằm xoa
dịu nỗi ê chề hiện tại: “Mưa thuận hòa
gót chân - Trái tim rộn ràng ngực đất - Dòng trăng cuồn cuộn thân cây”. Ở
đó, mọi thứ đều sẽ đổi thay: “Ngày mai
mặt đất này - Và thế giới đổi khác”. Khi ấy:
Con bồ câu đã về
Mang cả buổi chiều
Kẹp trong đôi cánh
Một buổi chiều khoác bộ lông màu lam
Cổ và đỉnh đầu khoang trắng
Cùng móng chân bé xíu bước lên trăng
Ngày chói gắt và rạng rỡ
Rũ trên đóa hoa trinh nữ
Dịu dàng khép lại
Đây là thời khắc ái ân
Thắp sáng lãnh địa bóng tối
Mùa phồn sinh thụ phấn, kết hạt
Mặn nồng thiêm thiếp trăng khuya
(Mùa trăng)
Hình tượng thơ Mai Văn Phấn càng về sau càng đậm chất siêu thực, dù anh
tâm niệm “Muốn viết câu thơ tự nhiên –
Như đi trên đất" thì cái tự nhiên kiểu trực giác, ấn tượng trong một
từ, trong một hình tượng nào đấy cũng đã làm cho quá trình tạo sinh nghĩa càng
nhân lên (simultible) trong cảm nhận của người đọc. Ví như khổ thơ sau đây, có
ít nhất là hai cách hiểu: cách hiểu theo nghĩa bóng thông thường và cách hiểu
theo nghĩa tượng trưng, ẩn dụ:
Che mắt anh
bằng
đường dài cây số
niềm
vui sương rơi khép cửa
nhiều
ý nghĩ thoáng qua
Em
vẫn thấy
giữa
khoảng không chật hẹp hai nhà đi nhanh hơn tưởng tượng
và
nắng chưa kịp nóng hun
Đưa
tay qua khe hẹp hoàng hôn
Vội
trao anh gói quà nhẹ bẫng
Anh
sung sướng mở ra
Gặp
ý nghĩ từng quên trong quá khứ
(Nhịp IX - Hình
Đám Cỏ)
Nhà thơ là người gặp được “nhân duyên”
trong Phật giáo, người được may mắn nhìn thấy một thế giới khác, thế giới nhập
nhòa giữa hiện hữu và hư vô. Gọi tên vẻ đẹp cụ thể nhưng khó nắm bắt ấy chính
là lý tưởng thi ca mà nhà thơ vươn tới trên hành trình tư tưởng – nghệ thuật.
Trong thế giới ấy, Mai Văn Phấn nhận ra Đức Phật của lòng mình:
Đường tùng, bướm trắng, cỏ khô
Đỉnh núi nhìn con ngập sương khói
Yên Tử thu tầm nhìn
Vầng trán tán cây
Hơi thở gấp gáp dưới khe suối cạn
Con rắn lục trườn qua bụi gai khô
Hoa mai trắng rơi trên phiến đá
Bỗng nhớ chùm hoa xoan phởn phơ
Trong gió xuân hôm nào
Ước nguyện duy nhất lúc này
Cầm tay người đàn bà con yêu
Được gặp Đức Phật
(Buổi sáng
lên Yên Tử)
2. Bản thể chữ
và khả năng tạo sinh nghĩa
Theo tôi, thơ theo khuynh hướng nào không quan trọng, tùy theo nhu cầu
thời đại và nhu cầu của chính quy luật thi ca, nhưng thơ phải hay, đó mới là
mục đích của quá trình thể nghiệm trong sáng tạo và tiếp nhận. Nếu không tạo
được hiệu quả thi ca như thế thì thơ sẽ trở thành vô tăm tích và sớm muộn gì
cũng mất hút trong sự quên lãng của thời gian. Trên hành trình tạo sinh nghĩa,
ngôn từ thơ Mai Văn Phấn đã vượt qua được sự quên lãng ấy. Thơ anh luôn “tươi
xanh” như chính “cây đời”: “Không, ta vẫn
còn giọng nói, Mỗi âm tiết lúc ấy hiện lên một sự thật. Sự thật hiển nhiên đảo
lộn mọi quy ước phổ thông (Anh anh em em). Nếu làm thơ là “làm chữ” thì Mai
Văn Phấn như “phu chữ” (cách nói của Lê Đạt) làm hiện lên những “sự thật” phái
sinh. Đó cũng chính là cách mở rộng biên độ nghĩa cho thơ. “Đổi mới thi pháp
trước hết là từ chối ve vuốt những sở thích của người đọc, nhằm tạo những sóng
từ khác, những mã số khác trong không gian thơ vừa được khám phá. Lý tưởng thi
ca của sự cách tân nhằm gọi đúng bản chất của sự vật trong nhịp điệu đời sống
hiện đại” (5; 378). Mai Văn Phấn, với một “góc nhìn” rất riêng đã triển khai
thi pháp hiện đại và tâm thức hậu hiện đại một cách sáng tạo, đầy ám thị: “Trong mơ ngả mình trên biển - gối đầu lên
tay em - Em nghĩ nơi đây biển sâu 8 mét - tôi đọc được ý nghĩ - có đám mây và
chim hải âu - Tôi mang giấc mơ ra phố - lúc ăn sáng thấy mình giống miếng mộc
nhĩ - sôi lên trong nồi nước dùng - nồi nước sâu 8 mét - Vào thăm bạn trong ngõ
hẹp - biển số nhà giống miếng mộc nhĩ trong nồi nước dùng - tiếng bạn vọng từ
độ sâu 8 mét - Khép bớt cửa vì lạnh - Hơi ẩm mơ hồ ngấm xuống rất sâu - Thấy
khoảng cách từ chân ghế tới bức tượng - tiếng mọt kêu tới vụt nhanh tia chớp -
giữa những khuôn mặt trong quán phở xa lạ (...) bằng - khoảng cách giữa đám mây
và chim hải âu - đẹp tuyệt vời trên độ sâu 8 mét”(Chọn cảnh).
Phóng chiếu thơ theo trục lựa chọn, Mai Văn Phấn cũng như các nhà thơ
hậu hiện đại đã tìm thấy ở đây một phương thức thuận lợi, nhất là trong việc
sáng tạo ngôn từ (parole). Đó là thao tác mà nhà thơ dựa trên một khả năng kỳ
diệu của ngôn ngữ ở chỗ các đơn vị ngôn ngữ có thể thay thế cho nhau nhờ vào
tính tương đương, đồng dạng giữa chúng, cho phép nhà thơ lựa chọn một cách nghệ
thuật chỉ một đơn vị ngôn ngữ trong hàng loạt đơn vị ngôn ngữ có giá trị tương
đương nhau để diễn đạt nội hàm ngữ nghĩa mà mình cần thể hiện. Hoặc bên cạnh
đó, nhà thơ luôn tìm tòi, phát hiện những từ mới lạ khác để thể hiện nội dung
mà họ cần thông điệp đến độc giả. Mai Văn Phấn đã làm được điều này:
Tờ lịch trên tường đang tự mở sang ngày…
Bát canh nóng mở cửa phòng chật hẹp…
Miệng em hé lộ khu vườn yên tĩnh…
Lời vô nghĩa mở ra tưởng tượng…
(Mưa trong
đất)
Nhà thơ Chế Lan Viên có nói đại ý: Nhà thơ càng độc đáo thì thường nói
những cái vô nghĩa, nhưng là sự vô nghĩa hợp lý, thoạt đầu, ta nghe ta không
hiểu được nhưng càng nghĩ và càng đi sâu vào bên trong những liên tưởng, hình
ảnh, câu chữ thì dần dần ta tìm được ý nghĩa ẩn chìm của chúng. M. Heidegger
cũng đã nói cái khả năng kỳ diệu ấy của ngôn ngữ: “Ngôn ngữ là ngôi nhà của hữu
thể”. Phát hiện này có một phần tương thích cho thi ca. Những câu thơ của Mai
Văn Phấn cấu trúc theo trục kết hợp với nhưng với trường từ vựng lạ, đầy mê
hoặc: “Ai đang về giữa hạt sương trong.
Tiếng sấm sâu hút - Cánh hoa mong manh vươn tự do” (Mưa trong đất); “Gần em nghe trăng lên – ngồi trong quả
chuông ánh sáng” (Những bông hoa mùa thu).
Là một thi sĩ đam mê sáng tạo, Mai Văn Phấn cho rằng “nếu không sáng
tạo, tức không làm ra những sản phẩm mới, coi như anh ta đã chết” ( 96.459).
Như thế, sống, với Mai Văn Phấn, nghĩa là sáng tạo, tư duy thơ luôn luôn vận
động, luôn “thao thức”. Có thể thấy rằng, kiểu tư duy biến ảo là đặc trưng nổi
bật trong thi pháp ngôn từ thơ của thi sĩ tài hoa này: “Con cá nhảy vào đám mây tự vẫn - Buông ngang trời ngàn vạn lưới
câu…Đừng đứng gần bóng râm – Chúng là con quạ - Xõa cánh lúc hoàng hôn, rạng
đông” (Biến tấu con quạ).
Nhà thơ như đang chênh vênh ở hiện tại, nuối tiếc quá khứ, phấp phỏng
trong dự cảm về tương lai. Đó là dự cảm về một thế giới xáo trộn, đầy rạn nứt:
sống - chết, tụ - tán, trắng - đen, thật - giả: “Một giọt nước vừa tan - Một mầm cây bật dậy” (Nghe em qua điện
thoại). Thế giới ấy có khi được ngụy trang bằng vẻ ngoài “đạo mạo”:
Đạo mạo nghe trộm điện thoại
Đạo mạo nhìn ngực chị em trong đám tang
Đạo mạo ký tên vào công trình khoa học
Đạo mạo làm thơ tình khi đã liệt dương
Đạo mạo thả virus vào e-mail người khác
Đạo mạo đánh tráo bài thi
Đạo mạo tiêu tiền âm phủ
(Bài học)
Mai Văn Phấn là tác giả của 1 trường ca (Trường ca Người cùng thời) và 8 tập thơ
(Giọt nắng, Gọi xanh, Cầu nguyện ban mai,
Nghi lễ nhận tên, Vách nước, , Hôm sau, và đột nhiên gió thổi, Bầu trời không
mái che). Thơ anh được giới thiệu tại: Thụy Điển, New Zealand , Anh quốc, Hoa Kỳ, Hàn
quốc, Indonesia … Dường như, cứ sau một
bài thơ, một tập thơ, anh làm người kiếm tìm, bón chăm và gieo vãi những mùa vụ
thi ca mới. Thành công hay thất bại còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố, nhưng ý thức
cách tân là một động thái rất đáng trân trọng. Mai Văn Phấn tiếp cận và hào hứng
cổ vũ những chủ thuyết mới của thi ca thế giới, từ hậu hiện đại đến tân hình thức,
từ siêu thực hiện đại đến mông lung tân hiện đại... Với anh, “Viết để khai sáng chính mình, được thấy mình
khác những người khác” (1;510). Và Mai Văn Phấn đúng là Mai Văn Phấn, không thể
là một ai khác, trước hết là ở nghệ thuật ngôn từ - ngôn từ tạo sinh nghĩa:
- Hãy nhìn xuyên đêm!
- ............
- Thấy gì không?
- ............
- Chiếc váy cuối hạ
- ............
- Lay động thân cành
- ............
- Cánh tay em cân đối cảnh vật
- ............
- Mở rào gai góc
- ............
- Không thấy ngôi sao
- ............
- Run mơ hồ
- ............
- Ủ nắm cát trên ngực!
- ............
- Pha lê ánh sáng
- ............
- Bóng đen lò luyện khổng lồ
- Thi nhau vốc cát ném vào đêm tối
(Nhịp VII -
Hình Đám Cỏ)
Giữa những dòng
thơ có chữ và không chữ ấy là những thông điệp ẩn, tạo thành mạch ngầm văn bản
để người đọc tự phát giác nghĩa ở những quan hệ khác nhau theo logic liên tưởng
của mình.
Mai Văn Phấn cho
rằng: “Thật kinh hãi phải ngắm nhìn một nghệ sĩ cứ đứng mãi một chỗ mà biểu
diễn quá nhiều lần một tiết mục tới gần như vô cảm, nói cách khác là thương hại
những ai thâm canh triền miên trên một mảnh đất đã cỗi cằn. Quá trình vượt
thoát khỏi cá tính chính là quá trình vong thân. Với cá nhân tôi, quá trình
vong thân là khoảng cách giữa giai đoạn tạm ngừng sáng tạo… Mỗi bài thơ tôi
quan niệm là một dự phóng, một kinh nghiệm riêng biệt… Truyền thống không chỉ
đơn thuần là sự kế thừa, nó cũng liên tục là những cuộc vong thân. Nói cách
khác, đó là quá trình sáng tạo để tìm đến những giá trị cao hơn mang tính dân
tộc” (6;403). Và từ nguồn mạch sáng tạo ấy, nhà thơ: “Tạ ơn mưa nguồn, chớp sáng, mây qua…Tạ ơn sương sớm, đất đai, đêm tối”
(Mưa trong đất) để anh tiếp tục chiêm
cảm và sáng tạo.
“Văn chương là
hành trình đơn độc đi tìm cái đẹp. Tác phẩm văn học, trước hết quay lại hoàn
thiện nhân cách, quan niệm thẩm mỹ và định hướng cho chính nhà văn ấy” (6;448).
Làm người lữ hành dấn thân trên hành trình đơn độc ấy, Mai Văn Phấn đang xoá
nhoà ranh giới giữa văn xuôi và thi ca mà vẫn được gọi là ngôn ngữ thi ca
(langue poetique), nghĩa là anh luôn thay đổi hệ ngôn từ để chúng làm tiền trạm
cho cảm xúc và suy nghĩ của mình để không trở nên xa lạ với mọi người (dù lúc đầu
có như thế thật). Thơ anh chú trọng vào nhịp điệu, tu từ theo cách của anh –
nhịp tình cảm có thật thông qua suy nghĩ, triết luận - đặc biệt là những liên
kết từ lạ, đa dạng và bất ngờ. Những câu thơ văn xuôi hóa của anh lại súc tích,
vì được đặt trong một “từ trường ngôn ngữ thơ” giàu tính biểu tượng và tượng
trưng. Chúng có sức mạnh tạo nghĩa và ám ảnh hơn nhiều lần những câu mang nhịp
điệu của một dàn đồng ca quen thuộc. Điều ấy đã tạo ra chất tự sự hiện đại và cả hậu hiện đại trong thơ anh, : “Hơi thở truyền nóng điện thoại giây lát, hỏi
anh ăn sáng chưa, đang làm gì, nhớ
ngồi ngay ngắn. Anh trả lời bâng quơ, đặt tay lên bàn. Tiếng em rì rầm. Quạt
để tốc độ nhỏ thổi gió khắp phòng. Bàn
rộng. Cánh cửa hẹp. Đưa tay có thể
chạm đồ vật bất kì. Lọ hoa sáng nay đang tươi trở lại. Tiếng em vọng từ bông
hoa phớt tím, cánh lá nhỏ vây quanh. Anh nghe em cất đi cuốn sách. Chiếc bút và đồng hồ tự trôi…” (Nhịp II
- Hình Đám Cỏ).
“Thơ tôi là ngôi
nhà của riêng tôi, trước hết, ai muốn vào xin hãy gõ cửa và tuân theo những
nghi thức nhất định” (6;459). Vẫn biết như H. G. Gadamer nói: “…Thế giới bao
giờ cũng là thế giới đã được giải nghĩa, là thế giới với các quan hệ chủ yếu đã
được sắp xếp lại của mình…Chính vì thế, thông diễn, đơn giản là chúng ta phải
cố gắng tìm hiểu tất cả những gì có thể hiểu được…”, nhưng đi vào ngôi nhà thơ
của Mai Văn Phấn, đôi khi ta là kẻ “nhập gia” nhưng khó lòng “tùy tục” được để
diễn giải tường tận những ký mã của thơ anh. Điều này đã có J. Lacan chứng
nghiệm: “Vô thức được cấu trúc như một ngôn ngữ”, nên nói tác phẩm văn học như là quá trình là nói theo nghĩa ấy. Ngôn ngữ
một khi được cấu trúc từ vô thức thì việc hiểu nó càng phải có quá trình chính
là vậy.
Giữa cuộc sống xô
bồ, Mai Văn Phấn luôn tự hiện hữu mình trong từng quan hệ. Anh cảm nhận sự
trống vắng, lạc lõng khi “chưa nhận tin em” cho đến khi sững sờ nhận ra một âm
thanh, một bóng nắng, một hồi còi thì tất cả dường như đã trôi nhanh vào xa
lắc, dù lúc đó tiếng em đã hiện lên sau không gian im lặng: “Hôm nay chưa nhận tin em. Anh lạc trong lá
cây, tiếng cười, gió mặn…Mở cửa anh nhìn. Không ai níu con đường trôi trong
bóng chiều. Không ai giữ lại hồi còi đang lan trên đất. Tiếng còi kia vừa chạm
anh, không vượt qua anh. Phía sau im lặng. Mọi vật vẫn trôi như nó vẫn trôi…
Chỉ khi có tiếng em, hồi còi kia lại tiếp
tục trôi nhanh, dù con tàu đã rất xa” (Nhịp IV - Hình Đám Cỏ).
“Sáng tạo chính là cuộc vong thân, là quá trình phủ định bản ngã… Bài
thơ tôi vừa viết xong là bài thơ cũ. Tôi là người luôn mới” (6;425). Nhưng bản
ngã ấy, có lúc chỉ như cánh chuồn mỏng manh, tả tơi trên đỉnh gió, thì cũng là
bản ngã của một tín điều thi sĩ:
Thoáng một cây cầu
Thân thể anh bị gió bẻ gập
Rũ xuống tựa chiếc khăn ướt vắt qua hàng lan can
Nhỏ xuống dòng sông chảy xiết
Nhớ đoàn tàu lao qua xẻ ngang mình gió
Cột khói vật ngược cùng hồi còi phút chốc mất tăm
Hơi thở anh co thắt qua lưỡi gà cây kèn
Nâng cánh chuồn chuồn mỏng manh
Ung dung ngả lưng đỉnh gió
Ngoài kia những vòm lá rối
Lay giật tả tơi cho đã cơn hưng phấn điên cuồng
Cơn ức chế thèm khát
(Đỉnh gió)
Việc sáng tạo thi ca, với Mai Văn Phấn gần giống trạng thái lần đầu được
khám phá những gì bí ẩn, phức tạp:
Là con kiến nhỏ trong thế giới em
Có thể bị nghiền nát dưới tảng đá vỡ
Dưới gót giày
Mũi khoan, lưỡi cuốc
Độ nóng que hàn
Tiếng rít từng bánh sắt
Bị thiêu rụi trong đám cháy rừng
Thành tro bụi giữa tầm sét đánh
Biết thế…
Vì biết thế
Nên đỉnh đồi
Hay tận hang sâu
Anh hóa thân thành muôn ngàn loài kiến
Kiêu hãnh bò đi trên thân thể em
(Nhịp IV -
Hình Đám Cỏ)
Mục đích của thi ca là tạo lập một từ trường, để tất cả từ đồ vật đến
linh hồn đều được cất tiếng nói, trong một trật tự mới: “Trong hơi ấm nồng nàn - Hạt
nắng chảy vào em - Mùa nước về rạng
rỡ - Con ong rạch đường bay - Cây cao vươn bóng anh - Chim bồ câu ra ràng - Sương đêm côn trùng tỉnh dậy - Lũ nấm rơm mở mắt - Trùm lên non nớt xanh (Giai điệu xuân). Trong trật tự thi giới Mai
Văn Phấn, có những thứ tưởng như không thể khuôn lại trong “chiếc lồng” thì lại
tự quay về, tự sắp xếp như một ám ảnh nghệ thuật:
Tôi vội vẽ chiếc lồng trong ý nghĩ
Sợ chim bay đi…
……..
Chẳng cần chim lại bay về
Tiếng hót ấy giờ tôi nghe rất rõ
Con chào
mào)
Hoặc:
Đêm ái ân lặng phắc ngọn đèn
Trái hồng đượm trong hương cốm nõn
(Cốm hương)
Tiêu đề các tập thơ của Mai Văn Phấn đều ẩn dụ một ý nghĩa đổi mới và
mang tinh thần tiên phong trong quan niệm thi ca. Ví như Hôm sau, không chỉ là thời gian thường nghiệm chỉ ngày tháng mà
chính là hôm sau của sự tiếp tục làm mới thi ca. Hoặc và đột nhiên gió thổi, tôi cũng xin được hiểu theo cái nghĩa bất
ngờ của sự bừng ngộ thi ca, của những cái khả nhiên từ thiên nhiên đưa đến và
trở thành năng lượng mới cho tâm hồn để biến thành thơ. Còn với Bầu trời không mái che thì xác tín trong
tôi đã rõ. Mai Văn Phấn muốn thơ là ngôi nhà tâm hồn trần trụi, không nên lúc
nào cũng phủ lên nó mái che, làm mất khả năng bắt sáng và bắt sóng. Chỉ có
những khả năng ấy thơ mới tự do tỏa phát một cách nhanh nhạy và tối đa thế giới
nội tâm và ngoại giới từ vi mô đến vĩ mô mà không bị gò bó, cản trở. Chỉ có tâm
hồn nhạy cảm và luôn suy tư, trăn trở của anh mới là mái che cho những va chạm,
sinh thành những tứ thơ mới lạ, kỳ thú, lấp lánh lời giải đáp về những điều
hằng cửu tốt đẹp của cuộc sống và thi ca mà anh có sứ mệnh phải chở che mà
thôi!
Không thể trình bày hết và tường giải hết sự hiểu của mình về thế giới
hình tượng và ngôn từ đa nghĩa trong thơ Mai Văn Phấn. Nhưng qua hình tượng,
qua ngôn từ ấy, người đọc sẽ bất giác hiểu những gì không phải chỉ trên bề mặt
của chúng mà là ở dư vị, dư hương, dư âm, dư vang của hình tượng và ngôn từ, dù
chúng đa dạng và biến ảo, cổ xưa và hiện đại đến đâu. Khi ấy, ta mới thấm thía
câu nói của nhà thi học C. L. Strauss mà đến nay vẫn còn đáng để tham chiếu:
“Thi sĩ là những kẻ cuối cùng còn sót lại biết rằng ngôn ngữ cổ xưa vẫn còn
những giá trị”. Hành trình tạo sinh nghĩa trong thơ Mai Văn Phấn đi từ truyền
thống đến hiện đại và lại tiếp tục bén rễ trong truyền thống mới để tiếp tục
hiện đại và hậu hiện đại, như anh nói: “Nhưng thời gian qua đi, những giá trị
thi ca đích thực vẫn còn đó. Những giá trị thi ca mới mẻ, thậm chí xa lạ hôm
nay sẽ dần dần chinh phục được bạn đọc và nó sẽ trầm tích thành “truyền thống”.
*
Trong một phỏng vấn ngắn, khi được hỏi: Mỗi người chỉ có một lần cơ hội, Mai Văn Phấn trả lời: Chết như một nhà thơ (6;396). Đó có thể
xem như tâm nguyện và đức tin tôn giáo thơ của Mai Văn Phấn. Anh đã tự nguyện
làm “con chiên” của thơ để mang vác cây thánh giá chữ đi cùng hành trình cuộc
sống – hành trình thi ca mong cứu chuộc tâm hồn mình và đóng đinh niềm tin vào
sự sáng tạo. Muốn vậy, nhà thơ còn phải tiếp tục vượt qua thử thách, hệ lụy
bằng cách luôn vượt chính mình, nói theo
ý nghĩa và trong khuôn khổ của sự tiến lên, nhằm làm thất bại (hay thất
vọng, cũng thế) mọi nuông chiều theo những sở thích dễ dãi để thực sự tự do
hoàn toàn trong vương quốc của chữ và nghĩa
mà tư tưởng nhà thơ mang vác. Dù cuối
cùng có thể bị thất bại, nhưng không thể không tiếp tục hướng về đích vinh
quang mà thơ ca đang vẫy gọi và chờ đón. Có thể mượn câu thơ của Chế Lan Viên
để nghĩ về hành trình thơ Mai Văn Phấn mà anh đã luôn tự nguyện “vong thân” và
gián cách với độc giả cho cái mới hiện hình: “Nghệ sĩ lớn là người nào biết gián cách họ với ta bằng tác phẩm –
Đem
tất cả cái Bên Trong tạo Hình Thức bên ngoài”.
Vỹ
Dạ - Huế, 5-2011
H . T . H
______________________________
TÀI
LIỆU THAM KHẢO
1. Lại Nguyên Ân
và…(2003), Văn học hậu hiện đại thế giới-
Những vấn đề lý thuyết, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.
2. Hồ Thế Hà (2007), Những khoảnh khăc đồng hiện, NXB Văn
học, Hà Nội.
3. Hội Nhà văn Việt Nam (2010), Nhà văn
Việt Nam hiện đại, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.
4. Inrasara (2008), Song thoại với cái mới, NXB Hội nhà văn,
Hà Nội.
5. J. F. Lyotard
(2008), Hoàn cảnh hậu hiện đại, NXB
Tri thức, Hà Nội.
6. Mai Văn Phấn
(2011), Thơ tuyển Mai Văn Phấn cùng tiểu
luận và trả lời phỏng vấn, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.
7. Hoài Thanh – Hoài
Chân (1988), Thi nhân Việt Nam, NXB
Văn học, Hà Nội.
8. Ilin – Tzurganova
(2003), Các khái niệm và thuật ngữ của
các trường phái nghiên cứu văn học ở Tây Âu và Hoa Kỳ, NXB Đại học quốc gia
Hà Nội.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét