Hồ Anh Thái, nhà văn của những nỗi đau đời
Trần
Lê Nhật Tâm
Hồ
Anh Thái là nhà văn rất có ý thức trách nhiệm đã khẳng định được một vị trí
trong đời sống văn chương Việt Nam .
Ông đã tạo dựng những nhân vật đa dạng, phức tạp, nhất là cách nêu vấn đề khá
nhân bản. Khi ấy, Hồ Anh Thái lại nhói đau như vừa đánh mất một điều gì quan
trọng. Những câu văn mang đầy âu lo khi những giá trị tốt đẹp đang bị bóp méo. Nhà
văn thể hiện những nhân vật phản diện, xoáy sâu vào các vấn đề nhức nhối trong
xã hội. Đằng sau những tiếng cười ấy, mỗi nhân vật như hiện thân của con người
nhố nhăng phức tạp.
Hồ
Anh Thái miêu tả lối sống ích kỷ tàn nhẫn, thói vô lương tâm của con người. Đố
kị nhau đến cả sở thích vặt vãnh như “sưu tập chim” (Chim anh chim em). Khi Diệu sở hữu được con yểng hay hơn mình, ông
Thiển đã quá uất hận như con chim lớn rơi từ lầu năm xuống. Trong Sân bay và Tờ khai Visa, những ghen tị của những người gọi nhau là đồng
nghiệp, được tái hiện sống động đầy tính chất “black humour”. Người ta nghĩ ra
trăm phương ngàn kế để tiến thân: thằng phụ hồ thành nhà nghiên cứu, gã bảo vệ
đặt trộm máy quay trong phòng viện phó để xem phim heo miễn phí và có được vũ
khí tiến thân, gã nhân tình vô học của cô viện sĩ trẻ đi lên nhờ thói côn đồ…
Phê phán những thói rởm đời thời nay, trong Lọt
sàng xuống nia, Hồ Anh Thái đã mượn hình ảnh của một nhà thơ kinh nghiệm
lâu năm: “Ông nhà thơ tiếng thơm phưng phức mấy chục năm qua, giờ móm hết, biếu
gì ông cũng không ăn. Ông trịch thượng gọi nàng là mày, xưng tao. Mày học hành
thế nào, không bao giờ tiên tiến à, mày làm ăn thế nào, không bao giờ xuất sắc
à, đấy, tao nói cấm có sai. Ông móm thành ra cho cái gì ông cũng chẳng xơi. Bù
lại, chẳng xơi của ai cái gì, thành ra, ông có quyền chửi thơ người này thối,
thơ người kia khắm”. Xã hội phân hóa phức tạp thành rất nhiều loại người gắn với
một “mảnh vỡ”. Nhan nhản trong truyện ngắn Hồ Anh Thái là hàng trăm nhân vật
không tên, không tuổi, không nguồn cội. Tác giả gắn họ với nghề nghiệp, địa vị,
chức tước: ông giám đốc, võ sư, ông sứ, bà viện phó, gã chuyên viên, ông viện
trưởng, chị nhà văn, ông Việt Kiều, chàng thư ký tòa soạn, ông tổng biên tập,
họa sĩ, chị nhà văn. Vật chất hóa tên gọi con người: Hai triệu, Ba triệu, Chín
triệu, Bóng rổ…Nhân vật có khi được xác định bằng diện mạo hay thói quen: thằng
Rú, thằng Phập, thằng Bạo, Cá sấu 1, Cá Sấu 2… Nhân vật cũng được số hóa: cô Số
1, cô Số 2, cô Số 3, Số 4 (Tờ khai Visa),
cô Nhất, cô Nhị, cô Tam, cô Tứ (Bến
Ôsin), ông A, bà B, chú C (Lọt sàng
xuống nia), Trạng 1, Trạng 2, Trạng 3, Trạng 4, Trạng 5 (Tin thật lòng)… Nhân vật bị xóa lai
lịch, như bị ném ra giữa dòng đời bất tận. Nhân vật tồn tại như một khuôn mặt
tượng trưng cho một loại người: vô lương tâm, vô tình, bàng quan, vật dục, lố
bịch, hợm hĩnh… Truyện ngắn Đàn kiến là
những suy tư mơ hồ của người phụ nữ cao quý về một phát giác: con người thật
đáng thương hại và thật hèn yếu, mù lòa, huyễn tưởng. Nhưng trong dòng sinh vật
bò tới, bò lui miệt mài kia, ai là con kiến và ai là con người? Các nhân vật
trong truyện ngắn Trại cá sấu, xấu từ
trong ra ngoài, xấu từ đầu đến chân. Lối viết tưng tửng, trào lộng xen lẫn độc
thoại làm cho người đọc như bị cuốn đi: “Hai nàng đẹp giai như bố”, “một mắt
nhìn núi Đôi, một mắt nhìn sông Nhị, một thân hình rắn giả lươn, cá trắm lai cá
chép trứng, một khuôn mặt sủi cảo, một khuôn mặt mưng thủ lợn thiu, răng cửa
phi nước đại, răng hàm phi nước kiệu”. Hai nàng xấu là tội của mười hai bà mụ
thợ thủ công kém tay nghề, tội của ông bố đẹp giai cứ muốn con gái mình đẹp
theo. Nhưng cái hấp dẫn người đọc không phải là ngoại hình lai vật của nhân vật
mà là thế giới của hai nàng đang sống. Cái thế giới xung quanh họ bất bình
thường tới mức quái dị. Từ thân phận cá sấu, hai nàng tiến một bước tới diễn
viên điện ảnh, họa sĩ mà không cần đến một chút tài năng và nhân cách nào. Một
đạo diễn có tài đưa cá sấu vào vai Mị Nương. Thế giới được tạo ra bởi những sự
kết hợp thân xác nghịch dị. Họa sĩ khen “cái phom cá sấu hai, mỗi lời khen là
một cục nước bọt bắn tung tóe ra, trúng đâu thì trúng”. Họa sĩ và Cá sấu hai
đóng khố, trát bùn lên để triển lãm tranh. Sự hoang tưởng thần bí của Cá sấu 1
cùng thế giới đồng cô, cung văn làm cho thế giới nhân vật thêm hài hước.
Hồ Anh Thái đi sâu khám phá con người ở mọi góc cạnh
của đời sống tâm linh, đời sống hiện thực. Đó là những phận người quay cuồng.
Hồ Anh Thái viết về đời sống tinh thần của những thanh niên với những khao khát
về cái đẹp, vươn tới cái lương thiện. Trong truyện ngắn Người và xe chạy dưới ánh trăng, Hồ Anh Thái hai mươi sáu tuổi thể
hiện một ý tưởng khá sâu sắc, rằng, con người ta đi vào đời với đôi bàn tay
trắng, sạch sẽ và lương thiện. Nhưng rồi càng đi càng phải giữ mình trong sạch,
mà đời cứ luôn muốn nhấn người ta vào sắc dục, vào những chỗ không được lương
thiện lắm. Cuộc sống xã hội thời gian đó với những xô dập ghê gớm. Các nhân vật
bị cuộc sống xô dạt về những nẻo khác nhau và họ phải vật lộn với số phận trên
con đường của đời mình. Hồ Anh Thái khi thì chứng kiến về các đời ôsin trong truyện ngắn“Bến ôsin”; khi
lại ngắm nghía mọi cử chỉ của giới công chức trong tập truyện ngắn “Tự sự 265
ngày”, hay là “lão già nhăn nhúm cười hềnh hệch những hỉ, nộ, ái, ố trong
“Bốn lối vào nhà cười”. Những nhân vật của Hồ Anh Thái không anh hùng, không có
gì là thê lương, không chủ nghĩa, không biểu tượng. Tất cả là cuộc sống lướt
qua chúng ta 365 ngày. Họ ăn, họ mặc, họ nói chuyện, họ lười biếng, họ lừa dối.
Họ là chúng ta và chúng ta cũng là họ. Người đọc giật mình khi thấy chính mình
đang nằm xoài ngáp ngủ trên bàn công việc … Những câu chuyện đó khiến người ta
phải cười ra nước mắt… Hồ Anh Thái đang thực hiện cuộc hành trình tìm kiếm
những hạt mầm thiên lương đang le lói trên những gương mặt dị dạng, trong những
tâm hồn u tối để kéo họ về với cõi người bằng niềm tin ở khả năng hướng thiện
của họ. Chính điều đó đã tạo nên giá trị đích thực trong những trang viết của
Hồ Anh Thái.
Bên cạnh con người bản năng, Hồ Anh Thái cũng thành công
trong việc xây dựng hình tượng con người tha hóa trong xã hội hiện đại. Thực
chất đó đều là sự hiện thân của cái ác. “Cái chết của Mai, vợ Lập trong truyện
ngắn Bóng ma trên hành lang phải
chăng là lời cảnh báo về những bi kịch đang chờ chực nếu người ta cứ tiếp tục
sống và đối xử với nhau kiểu ấy: bằng mặt mà chẳng bằng lòng, chỉ lăm le làm
điều ác với nhau”. Nhân vật trong truyện ngắn Hồ Anh Thái xuất hiện với nhiều
cấp độ rất khác nhau. Đó là những nhân vật có hình hài bình thường nhưng biến
đổi nhân tính. Tâm hồn họ bị bóp méo bởi đồng tiền, sự ganh đua, thói ích kỉ,
những thú vui khác người. Đó là những kẻ bần cùng đến tàn nhẫn, vô tâm, nghèo
khó đến dửng dưng, lạnh lùng, cơ hội, bỉ ổi, dâm ô… Những điều tử tế, những kẻ
tử tế cũng bất thành nhân dạng, cũng chỉ như thanh củi khô cháy leo lét,. Phải
chăng “cõi người ta” đã trở thành một sa mạc mênh mông, hoang vắng của dục vọng và lòng ích kỷ đến mức phải “rung chuông tận
thế”. Đặt kiểu nhân vật méo mó trong sự đối sánh với những kẻ lệch tâm nhà văn
mang đến một nụ cười bỡn cợt trong thang bậc các giá trị làm người. Trong truyện
ngắn Gương chiếu hậu- đồ thị- mùi xoa, Hồ Anh Thái đã xây dựng lên một kiểu nhân vật xấu xa và bỉ ổi vô
cùng. Đó là tên lái xe và thằng em của nó. Một người trong đời lái xe không
biết đã tông bao nhiêu người và lại cảm thấy thích thú khi gây tai nạn: “sự sắp
đặt của tạo hóa. Anh bạn than thở có thằng em hung thần là hung thần trên từng
cây số. Thằng này cứ lên xe máy là đâm. Người ta không đâm nó thì nó cũng đâm
người ta. Nó thậm chí đâm cả ô tô, ô tô càng tránh nó càng đuổi đâm cho bằng
được. Nó nghiện va quệt đâm đụng gây tai nạn” . Thực ra, trong cuộc sống hiếm có con người nào lại có tính cách nghịch
dị như vậy. Bằng kinh nghiệm sống, nhà văn đã khẳng định được rằng những con
người này vẫn đang tồn tại một cách hồn nhiên trong xã hội. Nhìn bề ngoài, gã
lái xe rất lịch sự với chiếc khăn mùi xoa mang theo bên mình. Gã không bao giờ
khạc nhổ xuống đất mà luôn dùng chiếc khăn mùi xoa thơm được gửi từ ngoại quốc
về. Tuy là thế nhưng gã cùng những cánh lái xe vẫn có một quan niệm rằng: khi
đã lỡ đâm xe vào ai thì nhất quyết phải quay xe lại đâm chết bằng được, nếu đâm
một lần rồi mà chưa chết thì quay xe lại đâm đến khi cho đối phương chết thì
thôi, nếu không thì phải nuôi con người ta suốt đời. Hồ Anh Thái không đả kích
vào riêng ai, ông đả kích vào thói đời, vào những hiện tượng li tâm, lệch
chuẩn, những gì trái quy luật. Và điều đó đã được thể hiện sinh động thông qua
số phận từng nhân vật. Trong truyện ngắn Tin thật lòng, ông giám đốc muốn sang phải gắn đời mình
với nghệ thuật, với các giá trị văn hóa. Vì thế, ông tổ chức các buổi lễ do
mình đặt ra: lễ phong trạng cho công ty, biểu diễn ca kịch, mời văn nghệ sĩ cả
Tây cả Ta về diễn. Hành động đó xem nghệ thuật như là những trò cười hạ đẳng.
Cuối cùng, ông giám đốc kia cũng chỉ là trò cười của chính mình mà thôi. Tác
giả mở đầu truyện ngắn Phòng
khách rất hấp dẫn: “Phòng khách của tôi là trường đại học của tôi. Nói thế
có người bảo biết học thì đâu chẳng là trường đại học. Quán nước chè năm xu của
nghệ sĩ ngày trước. Vũ trường đêm màu hồng của đám trẻ bây giờ. Các bờ nước ven
hồ Tây, trẻ con, bà già nhem nhuốc lội bì bõm, thò tay qua hàng rào, chạm tay
ướt vào những cặp đê mê trong cà phê vườn mà xin vỏ lon bia, lon coca. Đấy cũng
là trường đại học” . Rồi phòng khách của tôi trở thành phòng chờ, tiền
trạm, trạm trung chuyển, trung tâm đảm bảo tư cách, trung tâm dịch vụ chắp nối,
nghĩa là đủ thứ bà rằn đều được đưa vào phòng khách của anh ta. Vậy mà, anh ta
lại là người theo đuổi mọi lĩnh vực, học hành dang dở, theo khảo cổ, theo học
võ, văn chả được thì học võ, học đủ thứ nhưng chẳng giỏi thứ nào. Phòng khách
có đủ hạng người, hạng người nào cũng dở dở, ương ương. Tất cả đều là sự pha
tạp của thói lai căng đỏm dáng, không gì là chính danh cả. Nhà văn muốn triết
lí về sự sống mòn ảo vọng và chết mòn về nhân tính được đeo mặt lạ đỏm dáng để
phỉnh thiên hạ. Phòng khách mãi như một kí ức buồn. Hồ Anh Thái đã phơi bày tất
cả đời sống qua truyện ngắn Bãi tắm.
Tất cả đoàn “lòng vả cũng như lòng sung” nhưng lại cố che giấu bằng những loại
mặt lạ khác nhau. Hai chữ “chán lắm” được lặp đi lặp lại nhưng nhà văn vẫn chưa
hết niềm tin ở cõi đời. Truyện êm đềm nhất có lẽ Vẫn tin vào chuyện thần tiên, “sự tự tin chỉ đến với ta khi chợt
nhận ra là còn có người nhìn thấy hay giúp ta nhận ra giá trị của mình, bởi vì
dù cho có hiểu rõ chính mình hơn ai hết nhưng áp lực của dư luận, của những kẻ
nhân danh là “người xung quanh” luôn có khả năng phủ định nhận thức về bản
thân” .
Hồ Anh Thái là nhà văn có cách nhìn đời tinh tế. Đằng
sau nụ cười là những nỗi đau trước trạng thái nhân tính có thật. Các nhân vật
của Hồ Anh Thái không có người hoàn toàn tốt hoặc hoàn toàn xấu. Ngay cả khi
giễu nhại thì Hồ Anh Thái cũng thấy trong đối tượng có cả hình bóng của chính
mình. Hồ Anh Thái viết nhiều văn chương hoạt
kê, cả các truyện ngắn, cả tiểu thuyết. Các tập truyện ngắn Tự sự 265 ngày, Bốn lối vào nhà cười, Sắp
đặt và diễn là thứ văn chương trào lộng thật sâu sắc. Cuộc sống có
cả cái tốt, cả cái xấu. Xã hội con người muôn đời đã như vậy. Nhà văn rung
chuông báo động về một ngày tận thế, đó là ngày cái ác sẽ chế ngự cõi người.
Nhưng từ trong sâu thẳm, tác phẩm vẫn tin ở sự hướng thiện của con người. Và có
lẽ chỉ có tình yêu thương và sự thức tỉnh mới có thể hóa giải, diệt trừ tận gốc
cái ác, xây dựng cái thiện. Nhà văn tâm niệm về tác phẩm của mình: “Kẻ làm ác ở
đây bị tiêu diệt bằng chính điều ác mà chúng định gây ra cho người lương thiện,
một thứ hình phạt tự thân. Nhưng cõi người cũng bao dung lắm. Bạn hãy để ý nhân
vật chính, dọc theo cuốn sách là hành trình hướng thiện của anh ta cho đến khi
trút bỏ được cái ác. Triết học Phật giáo không tin vào định mệnh: kẻ làm ác vẫn
còn cơ hội được giác ngộ, được đón nhận trở lại cõi người, chứ không phải bao
giờ cũng bị trừng phạt”. Có thể nói, đây
cũng là tư tưởng nhân văn xuyên suốt và cũng là cái cốt lõi trong quan niệm của
ông. Hồ Anh Thái trăn trở về cuộc sống bằng cái nhìn khá sắc sảo. Mỗi kiếp
người đi qua chỉ như một khoảnh khắc của thời gian vĩnh cửu nhưng lại dằng dặc
những khổ đau và từng người lại phải chọn lối đi nào giữa ngàn vạn ngã rẽ của
đường đời. Hiện thực trong truyện ngắn của Hồ Anh Thái có nhiều trạng thái,
nhiều giá trị xấu tốt đan cài nhau. Hiện thực nhiều góc cạnh, nhiều chiều, là
hiện thực phân mảnh. Đằng sau những bi kịch nhân sinh, nhà văn vẫn không mất đi
niềm tin vào con người. Hồ Anh Thái nhìn thẳng vào nỗi đau để gióng lên tiếng
chuông khẩn thiết về sự khô kiệt nhân tính đang có mặt khắp nơi. Mỗi tác phẩm
của ông là một câu hỏi, một băn khoăn về bi kịch của những kiếp người đi qua. Tư tưởng triết học được nhào nặn trong cái
nhìn hiện sinh của con người hiện đại nhằm nói lên sự bất tử của nhân tính.
Những yếu tố hài hước trong nhân tính của mỗi nhân vật được Hồ Anh Thái quan
tâm lí giải tạo ra cho tác phẩm của ông một tầng ý nghĩa sâu sắc: nhà văn vừa
tỏ thái độ mỉa mai chua chát, vừa thấy sự xa lạ lạc lõng đáng trách của con
người, để từ đó hướng con người đến những giá trị tốt đẹp. Bên cạnh
những mặt xấu, nhân vật của Hồ Anh Thái cũng biết sống vì người khác, biết quây
quần đùm bọc lẫn nhau trong một cộng đồng nhỏ bé, những con người ấy đã biết
vượt lên bên trên số phận nghiệt ngã của đời thường, tạo hóa, hay rào cản dư
luận để dũng cảm mở một lối đi tiên phong. Hồ Anh Thái xây dựng nhiều nhân vật
hướng thiện, biết ăn năn hối cải để chuộc lại lỗi lầm. Nhà văn nhìn con người ở
đáy sâu tận cùng của chủ nghĩa nhân bản, trong sự ấm áp tình người. Tất cả
những cuộc đấu tranh thiện- ác trong truyện ngắn Hồ Anh Thái đều là những cuộc
chiến tự thân, đơn độc mà nhân vật phải đóng cả hai vai chính- tà. Nhân vật
Navi trong truyện ngắn Người Ấn do
khao khát yêu đương mãnh liệt đã dẫn tới vi phạm lễ giáo. Anh ta đưa người yêu
về nhà mình hành lạc ngay trước bàn thờ. Anh đã phải chịu sự trừng phạt là lang
thang suốt cả cuộc đời. Ở một đất nước đa tôn giáo như Ấn Độ, con người muốn
yêu đương tự do là rất khó và cuối cùng phải chấp nhận kết cục bi thảm. Kết cục
ấy đặt ra câu hỏi khiến người đọc phải trăn trở, suy nghĩ tìm ra câu trả lời.
Amanda trong Người đứng một chân, vì
muốn đấu tranh cho việc xây đền thờ mà phải đứng một chân hết ngày này qua ngày
khác. Nhưng sự hi sinh của anh trở thành vô nghĩa khi ông giám đốc nhà máy sản
xuất bao cao su tìm mọi cách chối từ. Kết cục là anh chàng Amada phải nhận lấy
cái chết. Câu chuyện đặt ra một câu hỏi: phải chăng ước mơ, khát vọng của con
người sẽ không bao giờ trở thành hiện thực khi đụng chạm đến tôn giáo, tín
ngưỡng? Con người liệu có thể đi bằng đôi chân của chính mình?
Không làm ngơ, bất lực, Hồ Anh Thái đã thực sự đau
đời. Những nỗi đau ấy được hóa giải thành những trang văn ấm áp nhân tình. Trào
lộng là biểu hiện của lòng tin yêu, của tình đời chan chứa. Hiện thực ấy vẫn
“đang bước đi” trong thì hiện tại tiếp diễn để đạt đến một cõi người đáng sống.
Với cái phẩm chất hiện thực đầy đặn trong tầm bao quát rộng về đời sống, với
cách viết rất hiệu quả trong việc đưa lại một ấn tượng “như thật”, những truyện
ngắn ở đây vượt ra ngoài phạm vi trào lộng. Nhà văn chỉ mượn lấy tiếng cười chứ
không cười.
Trần
Lê Nhật Tâm
Phòng
Tổ chức, Trường CĐ nghề Phú Yên
276
Đường Trường Chinh, Tp. Tuy Hòa, Phú Yên
DT 0902200058
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét