Thứ Sáu, 4 tháng 5, 2012

võ như ngọc - làng gốm nhạn tháp

Không biết tự bao giờ, có lẽ ngay khi hình thành vùng đất võ, người dân Nhạn Tháp đã biết dùng đất sét làm gốm. Làng gốm lâu đời này góp phần tô điểm cho vẻ đẹp chân quê và dân dã nơi đây. Bao lần đến Nhạn Tháp là bấy nhiêu lần tôi lang thang cùng …gốm. Chợt nhớ hai câu đối treo tại Chánh điện ty thờ Tổ nghề mà có lần đã được xem qua: “Sáng nghiệp Đồ thành thiên thu tại – Nghệ truyền tinh xảo vạn cổ tồn”(1), mà như ngân trong lòng tiếng gọi lịch sử từ nghìn trùng vọng lại. Ông Đặng Thành Long – một nghệ nhân lớn tuổi trong làng kể rằng, nghề này khởi nguồn từ thời vua Nghiêu, Thuấn, do một số người ở Trung Quốc truyền sang. Âu đó chỉ là giả thiết để nói lên sự lâu đời và tôn vinh vị thế của làng nghề, bởi đến nay vẫn chưa có một cứ liệu cụ thể nào viết về lịch sử hình thành của nó, chỉ biết là cách đây đã lâu lắm, hàng vài thế kỷ. Nhiều vị bô lão khẳng định, tên của vị Tổ có công khai nghiệp làng gốm Nhạn Tháp là Đào Dã. Thật ra đây là sự nhầm lẫn, bản thân hai chữ ĐÀO DÃ vốn là từ Hán –Việt được dùng chỉ thợ nặn gốm (Đào: đồ gốm; Dã: đúc, nặn). Thế là từ cụm từ chỉ người làm nghề, qua thời gian người ta hiểu sai thành danh từ chỉ người khai sáng làng nghề. Điều đáng nói là cách hiểu này tồn tại mãi đến tận hôm nay. Gốm Nhạn Tháp hình thành trên cơ sở kế thừa truyền thống sản xuất gốm của người ChămPa thuở trước. Bao đời nay sản phẩm của làng nghề vẫn mang vẻ đẹp thâm trầm, đỏ nâu của gạch tháp chứ không hề tráng men như gốm mỹ nghệ. Gần đây, qua một số lần khai quật khảo cổ khu vực thành hoàng đế, cũng như những lúc đào đất sản xuất quanh vùng, người ta nhiều lần phát hiện những phế tích là sản phẩm gốm cổ chămpa gần giống sản phẩn gốm Nhạn Tháp bây giờ. Một cơ sở để đặt niềm tin vào nhận định này là vài chục năm trước trên chính mảnh đất làng nghề người ta còn phát hiện hai lò nung gốm được thời kỳ ChămPa. Cội nguồn ấy cùng với sự tiếp biến của lịch sử, qua ảnh hưởng của một vùng đất giàu truyền thống văn hóa và tư duy dân tộc đã hình thành nên làng nghề gốm mang đậm bản sắc văn hóa người Bình Định ngày nay. Lúc mới hình thành, làm gốm không phải là nghề chính, làng nghề chỉ có vài gia đình nằm sâu trong xóm An Xuân. Rồi thấy làm gốm có thêm thu nhập, nhiều gia đình đã đến đây học nghề và mở lò nung riêng. Từ đó làng nghề phát triển khắp thôn Nhạn Tháp và bao gồm một phần diện tích của các thôn Vân Sơn và Thạnh Danh. Hầu hết các thợ gốm đều học nghề theo phương thức cha truyền con nối. Nhiều nghệ nhân lớn tuổi nhưng đã gắn bó với nghề từ thuở thiếu thời, họ sống với nghề không phải chỉ vì miếng cơm, manh áo mà còn bằng cái tâm của con người trên chính mảnh đất đã nuôi sống họ. Vì lẽ đó người ta nhìn đất bằng cả sự hàm ơn. Từ những khối đất vô cảm, những nghệ nhân đã thổi vào đó tâm hồn của mình, đánh thức giấc ngủ ngàn năm của thiên nhiên để sống với con người. Dĩ nhiên quá trình này trải qua nhiều công đoạn, từ khâu lấy đất ở ruộng, đến làm đất (nề đất), ủ đất, tạo dáng, làm nguội, phơi khô, chất vào lò, nung…Mỗi công đoạn đòi hỏi người thợ phải có những kinh nghiệm và bí quyết riêng. Ròng rã hơn một tháng trời, với biết bao công sức và những giọt mồ hôi hòa quyện cùng chất dẻo của đất để tích tụ thành cái đẹp. Người thợ gốm có nhạy bén tinh tường hay không, chính những sản phẩm gốm họ làm ra sẽ là lời mách bảo. Niềm hạnh phúc trước một tác phẩm mới thành hình, sự thích thú của người thưởng thức, cùng khoảng lợi nhuận thu được giúp cho người dân Nhạn Tháp ngày càng gắn bó với công việc của mình. Chúng tôi tìm đến nhà anh Đặng Ngọc Minh, một gia đình nhiều thế hệ gắn bó với nghề. Anh Minh không chỉ là người thạo tay nghề mà còn là người khá am tường lịch sử hình thành làng gốm. Cơ sở sản xuất của anh xuềnh xoàng với chỉ một chiếc bàn xoay, một lò nung cùng với vài thứ đồ nhỏ lẻ khác phục vụ cho việc sản xuất, nhưng nó đã tồn tại hàng mấy chục năm giải quyết việc làm không những cho gia đình anh mà còn cho nhiều lao động khác trong vùng. Anh say sưa kể tôi nghe những thăng trầm của nghề: Trước đây cả làng này đều làm gốm, sản phẩm tiêu thụ không chỉ ở Bình Định mà còn được vận chuyển xuôi vào hướng Nam, ngược lên Tây Nguyên và toả ra nhiều tỉnh phía Bắc. Từ thập niên 90 trở lại đây khi nền công nghiệp nhôm nhựa Việt Nam phát triển thì nghề làm gốm Nhạn Tháp rơi vào lao đao, sức mua bắt đầu giảm sút. Nhiều lò gốm đã bắt đầu tắt lửa, một số khác chuyển sang sản xuất bếp nấu, chỉ còn lại rải rác độ trên 10 hộ gia đình gắn bó với những mặt hàng truyền thống. Nhìn một nghệ nhân đang làm chiếc bùng binh, tôi hỏi anh Minh về giá thành. Anh trả lời: ngoài chợ người ta bán với giá 2000 đồng, nhưng chúng tôi bán cho dân lái buôn với giá chỉ 400 đồng. Giá thành thấp, mà sản xuất mỗi ngày một khó, ngay cả việc tưởng chừng đơn giản nhất là nguyên liệu đất cũng dần cạn kiệt. Những nghệ nhân ở đây không có ruộng, muốn sản xuất người ta phải đi mua đất, vì thế lời lãi còn lại chẳng đáng là bao. Đó là chưa kể tới những lúc rủi ro, như những ngày nung gốm gặp phải trời mưa coi như mất công cả tháng, có khi lỗ hàng triệu đồng. Trầm ngâm một lác, anh quay sang nói tiếp, dù khó khăn nhưng chúng tôi vẫn sẽ vượt lên tất cả, vẫn giữ cho mình một chút gì riêng nhất để duy trì và phát triển làng nghề quê hương. Chúng tôi tìm gặp những người thợ trẻ, bởi chính họ là thế hệ đang tiếp nối công việc do các bậc tiền nhân để lại, cũng là lớp người gieo mầm duy trì cho sự phát triển làng nghề về sau. Nhưng thế hệ trẻ theo đuổi nghề làm gốm hiện nay không nhiều. Những người thợ trẻ mà tôi được gặp như anh Mạc Văn Hoà, anh Cù Minh Hải, chị Nguyễn Thị Phước… năm nay đều đã trên 35 tuổi. Mỗi ngày ngoài được chủ lò bao ăn hai bữa, công nhật của mỗi thợ gốm nhận được từ 30 – 40 nghìn đồng tuỳ theo công đoạn sản xuất và tay nghề. Ở Tháp thông thường mỗi người chỉ chuyên làm một công đoạn, nên sản phẩm được ra lò là sự tổng hợp thành quả lao động của rất nhiều người. Trước khi tạm biệt Nhạn tháp, tôi được gặp nghệ nhân Nguyễn Thi Yên (84 tuổi), thế hệ thứ năm trong gia đình làm gốm. Ký ức ngày xưa hiện về và định hình rất rõ trên tấm ảnh thời gian, bà kể tỷ mĩ cách làm từng loại hình sản phẩm, về kỷ niệm tuổi thơ đã mừng rơn thế nào khi lần đầu làm được một cái chum nhỏ dù hình thù còn nhiều méo mó… Tuy tuổi đã cao không còn đủ sức làm việc nhưng thi thoảng bà vẫn loay hoay bên chiếc bàn xoay cho đỡ nhớ, và trên hết là để biết đang còn lại một ngành nghề truyền thống lâu đời. Bà nói đến ước mơ một ngày không xa làng gốm sẽ được khôi phục và sống dậy thời kỳ “vàng son” đã mất. Để quê hương mãi được sống trong hương vị ấm nồng của đất. Tôi nhớ đến câu thơ của BestonBres, hình như ông đã từng viết thế này: “Khi viên sỏi nói sẽ rơi trở lại - Lúc ta ném nó lên không - Ta có thể tin vào hòn sỏi...”. Vâng, hãy đem tất cả sức vóc và tâm hồn mình ký thác vào gốm, gốm sẽ ở lại với người, sẽ lại tô điểm nên vẻ đẹp chân mộc một góc trời Bình Định. Tôi vững tin vào nguồn nhựa sống ấy, tin làng nghề không bao giờ mai một, như những sản phẩm gốm bao đời ánh mãi một màu son

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét