Lưu Trọng Lư - ngơ ngác nai vàng
Bùi Văn Quang
Với Lưu
Trọng Lư, mộng và đời là hai sợi chỉ ngang dọc trên đường đời. Đời sinh ra mộng
và mộng dệt nên đời. Lưu lang thang trong một cõi mộng sầu vô tận nhưng số phận
ông lại gắn liền với những biến đổi của thời cuộc.
1. Lưu
Trọng Lư mang trong mình một trái tim đầy mộng và yêu. Lưu Trọng Lư cảm thấy
lạc lõng giữa cõi đời này như nai vàng ngơ ngác giữa rừng thu, một sự cô đơn
đến kì lạ: Em không nghe rừng thu/ Lá thu
kêu xào xạc/ Con nai vàng ngơ ngác/ Đạp trên lá vàng khô? (Tiếng
thu). Lưu Trọng Lư đã để lòng mình tràn lan trên mặt giấy một cách chân thành nhất. Đọc
thơ ông, có lúc ta thấy mơ hồ, nhưng dễ nhận ra được một thứ cảm xúc bất chợt,
không gọt câu ép chữ, nhưng sâu sắc: Em
không nghe mùa thu/ Dưới trăng mờ thổn thức/ Em không nghe rạo rực/ Hình ảnh kẻ
chinh phu/ Trong lòng người cô phụ?(Tiếng
thu). Đặc trưng trong thơ ông là âm điệu, đọc bài thơ ta có cảm giác
như đang thưởng thức một bản tình ca buồn với những nốt trầm lặng lẽ. Những đợt
sóng cảm xúc cứ dồn dập vào trái tim ta. Tác phẩm là cuộc đời, thơ là mộng bước
ra từ cõi thực. Với một lối viết đặc trưng sầu
mộng, Lưu Trọng Lư thật sự đã thành công khi tạo cho mình một dấu ấn riêng
không lẫn với ai. Cuộc đời là một bài thơ và Lưu Trọng Lư cứ bồng bềnh
trong bài thơ ấy.
2. Lưu Trọng Lư được gọi là: Nhà thơ đãng trí số một Việt Nam. Người
thi sĩ ấy mắc bệnh “đãng trí” bởi trong ông còn một thế giới tồn tại ngoài thế
giới thực. Các nhà phê bình văn học nhận định Lưu Trọng Lư là con người mơ
mộng, có khi không phân biệt được giữa thực với mộng. Có lần, ông ngâm mãi hai
câu thơ mà ông cứ đinh ninh là của Thế Lữ, đến khi xem lại tập Tiếng
thu thì mới bật cười vì sự đãng trí của bản thân. Lưu Trọng Lư là một
kẻ ngơ ngác nhưng không có nghĩa là ông hời hợt với cuộc đời. Xét cho cùng thì
cái thế giới Mộng đã ngự trị trong
người thi sĩ đa tình ấy. Cuộc đời Lưu Trọng Lư như một bài thơ, bài thơ ấy là
giấc mộng đời của một chàng lãng tử lơ đãng. Thế giới thực này đầy rộn rã và
cũng có quá nhiều xáo trộn. Có người cho rằng ông trốn tránh hiện thực. Nhưng
thực chất con người thực bằng da bằng thịt ấy có tư chất của một nghệ sĩ, tâm
hồn ấy dù có mơ mộng vẫn không phù phiếm. Ta vẫn cảm nhận được sự chân thật
toát ra từ con tim của một con người nhiệt thành. Cái chất Mộng như thấm nhuần vào tâm tưởng của Lưu Trọng Lư, trở thành nỗi
ám ảnh hiện hữu vô hình. Trong thế giới Mộng
ấy ông mới là chính mình, dù đó là mộng thôi nhưng đó là giấc mộng tuyệt vời,
giấc mộng giữa cuộc đời không bị ràng buộc, không giới hạn: Thơ ta cũng giống tình nàng vậy/ Mộng mộng mà thôi! Mộng hão hờ. Có lẽ
sầu và mộng mới thực sự là Lưu Trọng Lư. Tất cả đã dung hợp thành một chữ tình
đầy ý vị. Cuộc đời là một giấc mộng dài, làm sao để níu kéo thời gian? Góp cho
đời những khúc đàn xưa, dù điều ấy là nhỏ nhoi, một bông hoa dại giữa đồng cỏ
xanh, lặng thầm theo hương gió. Giá như, cứ ở hoài trong cõi mộng thì hay. Lưu
Trọng Lư trải lòng mình với tạo vật, một tâm hồn sẵn sàng rung cảm với mọi
chuyển động xung quanh. Nhiều lúc, ông cứ đắm mình vào những giấc mộng để rồi
khi chợt tỉnh chính thi sĩ lại cảm thấy nuối tiếc: Mưa chi mưa mãi/ Buồn hết nửa
đời xuân/ Mộng vàng chưa kịp hái. (Mưa… mưa mãi). Lưu Trọng Lư có cái
chất của người nghệ sĩ, một tâm hồn lãng mạn vượt qua cả rào cản của hiện thực,
cứ lung linh, lôi cuốn không biết bao nhiêu khách thơ. Thơ ông, nhìn chung đi
từ Thực đến Mộng, nhưng thế giới Mộng
ấy đã đi quá nửa quỹ đạo của một đời thơ. Thực
và Mộng cứ dung hòa như gió với mây, Mộng là cơn gió đẩy Thực trôi theo dòng chảy thời gian. Thật mông lung, huyền ảo, xa
xăm…
3. Lưu Trọng Lư mộng từ trong tâm thức. Các
tác phẩm Tiếng thu thể hiện sự sáng tạo nghệ thuật và một thế giới đầy
mộng mơ, đậm chất thơ. Bài thơ là một bản nhạc du dương đầy vần điệu, cũng là
một bức tranh thu làm ngây ngất lòng người. Ta nghe trong thơ có tiếng trăng mờ
“thổn thức”, có tiếng “rạo rực” trong lòng người cô phụ. Cả một không gian thu
hiện lên sinh động và đẹp lung linh đến lạ kì là nhờ bước chân của “con nai
vàng ngơ ngác”. Tiếng “xào xạc” làm
lắng đọng giấc thu, là âm điệu đấy, là thanh sắc đấy nhưng vẫn thấy lòng cứ
ngẩn ngơ. “Con nai vàng ngơ ngác” đã trở thành một hình ảnh quen thuộc. Lưu
Trọng Lư cũng như chú nai vàng lạc giữa một rừng thu, lơ đãng giẫm trên đám lá
khô xào xạc. Âm vang mùa thu dịu vợi làm cho ta có cảm giác buồn xa xăm, cũng
muốn thả lòng mình theo bước chân lơ đãng ấy. Từ thanh âm đến vần điệu, từ hình
ảnh đến ngôn ngữ có sự hài hòa, ngay cả cảm xúc cũng có sự biến chuyển: “thổn
thức” - “rạo rực” - “ngơ ngác”. Hình ảnh “con nai vàng ngơ ngác” giữa rừng thu
tựa như nhà thơ lạc lõng giữa cõi trần tục. Con người đầy mộng mơ ấy đã hiện
diện trong thế giới thực này để góp cho đời những nốt nhạc trầm lặng, thắm
thiết, ngân vang trong chiều sâu tâm thức. Tất cả như chơi vơi trong cõi mộng. Trong
một sáng tác khác ông viết: Vầng trăng từ
độ lên ngôi/ Năm năm bến cũ em ngồi quay tơ/ Để tóc vướng vần thơ sầu rụng/ Mái
tóc buồn thơ cũng buồn theo/ Năm năm tiếng lụa xe đều / Những ngày lạnh rớt gió
vèo trong cây/ Nhẹ bàn tay, nhẹ bàn tay/ Mùi hương hàng xóm bay đầy mái đông / Nghiêng
nghiêng mái tóc hương nồng/ Thời gian lặng rót một dòng buồn tênh (Thơ
sầu rụng). Hình ảnh thật nên thơ “tóc vướng vần thơ sầu rụng”, người em
gái ngồi quay tơ hiện lên mơ hồ trong hoài niệm, mang âm hưởng của một nỗi buồn
nhớ mênh mông. Để rồi khi sực tỉnh, một lần nữa người thi sĩ lại thấy luyến
tiếc vì mọi thứ chỉ là hư ảo. Lưu Trọng Lư có lối viết theo dòng
cảm hứng. Nhớ thương, suy nghĩ, tưởng tượng trào dâng ra từ nội tâm, hiện hữu
cả lên những vần thơ. Nhưng rốt cuộc chàng thi sĩ đa tình này vẫn hoài mộng: Giang tay ta đón nàng vào dạ/ Giật mình ẳm phải
cái không gian/ Dưới nước lâu đài tan tác vỡ/ Bên bờ trơ lại cái không gian (Mộng
chiều hè). Có đôi lúc, thi sĩ đã “lơ đãng” ngay trong vần thơ của mình: Giật mình ta mới nhớ ra/ Là ngày sinh nhật
vợ ta đó mà (Giang hồ). Lưu
Trọng Lư giống như một lãng tử khi say khi tỉnh, lúc say đã mộng, đến khi tỉnh
vẫn còn chập chờn, đến vô tận. Lưu
Trọng Lư thích lang bạt, thả hồn mình trôi dạt. Ông chán những cảnh tranh giành
nhỏ mọn, những phũ phàng trong cuộc sống thực. Chỉ có cõi mộng mới giúp ông vơi
nhẹ những âm hưởng nặng nề ấy. Mộng
chính là cứu cánh của một kẻ lang bạt kì
hồ như Lưu Trọng Lư: Dưới chân không
nghe chèo vỗ sóng/ Thuyền bơi trong cõi mơ lồng lộng (Thuyền mộng). Chỉ một cõi
mộng hư huyền, mờ ảo và kì diệu. Đó là vẻ đẹp của một trí tưởng tượng đã tạo
hợp với dòng xúc cảm tinh tế. Đó là
cõi mộng mênh, như áng mây trôi mờ ẩn, sẵn sàng tan biến vào cõi hư vô: Trên muôn dặm dưới muôn trùng/ Lòng ta phiêu
diêu mông lung/ Như làn mây biếc/ Cùng tan nơi mờ mịt (Xin rước cô em). Ấy là cái hồn thi nhân đã quyện vào cõi
mộng, trở nên mờ ảo, hiện ẩn xa xăm, không hình khối rõ ràng, có khả năng gợi
mở rất lớn.
Thơ
Lưu Trọng Lư hư thực bởi nhiều khi chính tác giả cũng không phân biệt được giữa
thực và mộng, chẳng biết được mình đang mơ hay tỉnh. Mộng và thực cứ lẫn lộn
với nhau, điều đó chi phối rất nhiều đến sáng tác của Lưu Trọng Lư làm cho thơ
ông mơ màng và kì ảo nhưng vẫn có sự hiện diện của chữ “Tình”: Mắt em là một dòng sông / Thuyền ta bơi lặn trong dòng mắt em (Trăng
lên). Ví đôi mắt em như một dòng sông để cho thi sĩ thả trôi con thuyền
tình y, cảnh vật cứ mơ hồ và hư ảo. Nhưng hình ảnh ấy không đơn giản chỉ là
tưởng tượng bởi nó rất gợi tình, đó là nhờ cảm xúc tràn ngập, một trái tim si
mê đang thổn thức trước cái đẹp. Ngay cả cô gái ngồi quay tơ cũng hiện ẩn những
tình thơ chất ngất: Vầng trăng từ độ lên
ngôi/ Năm năm bến cũ em ngồi quay tơ / Để tóc vướng vần thơ sầu rụng / Mái tóc
buồn thơ cũng buồn theo…(Thơ sầu rụng). Không chỉ có cảnh và
con người mà ngay cả cái “tình” cũng lả lướt hư viễn. Tình nằm trong cảnh, cảnh
toát lên tình, sự cộng hưởng như nhịp nhàng giữa hình ảnh – ý thơ – vần điệu đã
tạo nên một hợp thể làm say đắm lòng người, một bản tình khúc của thời gian. Tứ
thơ hay đã tạo nên một sáng tác có giá trị về nhiều mặt. Và cái mộng cũng được
nhìn nhận ở một góc độ cao hơn, đó không chỉ là sự phong phú của trí tưởng
tượng mà còn là phong cách sáng tác nghệ thuật của người thi sĩ. Thơ khởi sinh
từ tâm hồn, dù có phóng khoáng, lơ đãng những cũng thật đáng trân trọng bởi tâm
hồn ấy cũng chất đầy những trăn trở với đời. Thơ Lưu Trọng Lư không chỉ là giấc
mộng đẹp lung linh, nỗi xót xa dịu vợi, những trăn trở với thời gian, những âu
lo trong cuộc đời thực… Thực và Mộng cứ mơ hồ và những vần thơ vẫn thắm
thiết khó tả: …Ta mơ trong đời hay trong
mộng/ Vùng cúc bên ngoài đọng dưới sương/ Ta dí đôi tay vào miếng kính/ Giật
mình quên hết nỗi đau thương… (Tình điên).
4. Lưu Trọng Lư mộng trong cõi tình. Thơ
Lưu Trọng Lư bay bổng trong cõi mộng, vì hay mộng nên đa tình. Trong tập Tiếng
thu, cõi tình cứ mênh mang. Hình ảnh người phụ nữ trở thành nguồn cảm
hứng cộng hưởng cho sự ra đời của những vần thơ giàu xúc cảm. Cuộc đời và con
người là đối tượng hữu hình trong thơ Lưu Trọng Lư. Chỉ có cái tình và mộng là
khó định hình, lúc thực lúc ảo, khi say nồng khi êm êm dịu nhẹ, mơ màng… Hình
ảnh thôn nữ trong tuổi yêu đương hiện diện trong thơ Lư với một dung lượng khá
lớn, ý tình đã lên sâu đậm: Vầng trăng từ
độ lên ngôi / Năm năm bến cũ em ngồi quay tơ (Thơ sầu rụng). Dễ thấy
nét trẻ trung đầy mơ mộng: Hoa lá theo
nàng lác đác rơi / Cuối đường đeo giỏ hái mồng tơi / Mồng tơi ứa đỏ đôi tay nõn
/ Cô bé nhìn tay nhí nhảnh cười (Lá mồng
tơi). Có thể là một người cô phụ lặng lẽ: Em không nghe rạo rực / Hình ảnh kẻ chinh phu / Trong lòng người cô
phụ? (Tiếng thu). Nét đẹp dịu
hiền của người phụ nữ thắm thiết những trang thơ: Môi em đượm sặc mùi nho tươi / Đôi má em hồng chúm nụ cười / Đôi mắt em
say màu sáng lạng / Trán em để lỏng làn tóc rơi (Một mùa đông). Người con gái tuổi hai mươi lơ đãng làn tóc rối
dưới ánh trăng mờ, tuổi trẻ và thời gian vẫn hoài thổn thức: Còn đâu ánh trăng vàng / Mơ trên làn tóc
rối? / Chân nâng trên đường sỏi / Sương lá đổ rộn ràng / Trăng nội vẫn mơ màng
/ Trên những vòng tóc rối / Đêm ấy xuân vừa sang / Em tròn hai mươi tuổi. (Còn
chi nữa). Những hoài niệm về người
phụ nữ với tuổi mộng mơ và tình yêu hiện diện chân chất, mộc mạc nhưng cũng rất
tình tứ. Cuộc đời Lưu Trọng Lư cứ phiêu bồng với những mối tình không đi về
đâu, chỉ còn lại những hoài niệm mượt mà, thuần chất sống với thời gian. Cái
đau khổ nhất của con người là khi mộng đẹp tan, chỉ còn lại một nỗi trống vắng
trong cuộc đời thực, sự nhàm chán của thế tục làm cho tình cũng đau và thơ cũng
đượm sầu. Cái lạnh buốt của mùa đông thấm tan vào da thịt nhưng cái lạnh toát
ra từ con tim đang nhức nhối vì vỡ mộng còn ghê gớm hơn. Tình trong mộng tựa
như giọt sương ban sớm, long lanh nhưng nó chỉ tồn tại trong thoáng chốc và rồi
cũng tan dần vào khoảng không vũ trụ.
Lưu Trọng Lư là một chàng lãng tử đa tình, mà đa tình thì hay sầu mộng, những mối tình
của Lưu Trọng Lư cũng thiết tha biết bao nhưng tình mộng thì mau vỡ, chỉ còn
lại “một mùa đông” lặng lẽ: Em là gái trong cửa sổ / Anh là mây bốn
phương trời / Anh theo cánh gió chơi vơi / Em vẫn nằm trong nhung lụa /
... / Em chỉ là người em gái thôi /
Người em sầu mộng của muôn đời / Tình em như tuyết giăng đầu núi / Vằng vặc
muôn thu nét tuyệt vời. / Ai bảo em là giai nhân / Cho đời anh đau khổ / Ai bảo
em ngồi bên cửa sổ / Cho vướng víu nợ thi nhân / (Một mùa đông).Và rồi mảnh tình vụn
vỡ tan theo cơn gió mùa đông. Người thi sĩ đau lòng vì tình không như mộng: Thuyền yêu không ghé bến sầu / Như đêm thiếu
phụ bên lầu không trăng. Những vần thơ đằm thắm dệt nên khối tình mộng lung
linh. Chỉ tiếc rằng mối tình ấy mau chóng vỡ tan chỉ còn lại dư âm của nỗi sầu
muôn kiếp. Một mùa đông làm lòng lắng đọng theo thời gian, bài thơ bắt
nguồn từ một mối liên hệ có thật giữa thi sĩ và một thiếu nữ có tên là Cúc –
chị Điềm Phùng Thị, một nhà điêu khắc nổi tiếng hiện nay. Lư Trọng Lư khác với
các thi sĩ cùng thời ở chỗ không mơ mộng được gì ngoài dĩ vãng dân tộc, khi mà
làn sóng Tây phương có sức mạnh thay đổi tư tưởng của số đông thì ông lại tìm
về những hoài vọng của một thời vang bóng,
về một nền văn hóa dân tộc đang dần phôi pha. Ấy vậy mà khi thi sĩ đứng trước
một giai nhân tân thời thì lệ tràn đêm
xuân, tình tràn trước ngõ, mộng tràn gối chăn. Văn hóa hiện đại có sức lan
tỏa trên quy mô rộng, thi sĩ biết tìm đâu khoảng trời riêng cho mình, chỉ có
mộng và lênh đênh trên cõi tình mới làm cho người thi sĩ vơi đi nỗi đơn côi
trong hiện thực. Chính Lưu Trọng Lư sẵn sàng là “người tiên phong trong phong trào Thơ mới” nhưng cũng chính ông là
người cảm thấy hụt hẫng trước sự thay đổi mau chóng các giá trị tinh thần. Tình
lặng lẽ đành giấu chôn trong những vần thơ chất ngất, say nồng với khối Tình điên: Hôm ấy trăng thu rụng dưới cầu /
Em cười em nói suốt canh thâu / Yêu nhau những tưởng yêu nhau mãi / Tình đến
muôn năm chẳng bạc đầu (Tình điên).
Mối tình đẹp lại một lần nữa tan vỡ, hương
mộng tình sầu làm chơi vơi. Những
phút giây lãng mạn cứ nối nhịp phủ trùm lên tác phẩm của Lưu Trọng Lư. Với con
tim si mê và tâm hồn bay bổng, chàng thi sĩ tiếp tục dệt nên những khối tình
mộng man mác nỗi sầu vương: Giờ đây hoa
hoang dại / Bên sông rụng tơi bời / Đã qua rồi cơn mộng / Đừng vỗ nữa tình ơi /
Lòng anh đà rời rụng / Trên sông ngày tàn trôi / Tình anh đà xế bóng / Còn chi
nữa em ơi (Còn chi nữa). Ở một tác phẩm khác, tình cũng chênh vênh: Vầng trăng từ độ lên ngôi / Năm năm bến cũ
em ngồi quay tơ / Để tóc vướng vần thơ sầu rụng / Mái tóc buồn thơ cũng buồn
theo /… /Nghiêng nghiêng mái tóc hương nồng / Thời gian lặng rót một dòng buồn
tênh (Thơ sầu rụng). “Còn chi nữa” một khối “tình điên” làm chao đảo áng “thơ sầu rụng”, “một chút tình” của người thi sĩ đã lưu lại cho đời một “đóa
mộng đầu” thổn thức với thời gian: Đợi đến luân hồi sẽ gặp nhau / Cùng em nhắc
lại chuyện xưa sau / Chờ anh dưới gốc sim già nhé / Em hái đưa anh – đóa mộng đầu
(Một chút tình). Đóa mộng đầu như một đóa hoa thời gian,
dẫu biết rằng hoa nở rồi sẽ tàn nhưng
hình ảnh của đóa hoa thời gian lại vĩnh cửu. Lưu Trọng Lư tiêu biểu cho một
phong cách sáng tác thời đó: những bài
thơ, những câu thơ – hồn nhiên thiên thành như những đóa mộng đầu nở tình cờ
trong gió chướng (Đặng Tiến). Đó
là nét đặc trưng trong thơ Lưu Trọng Lư: Lãng mạn và đầy tâm trạng. Xin rước cô em bước xuống thuyền / Thuyền tôi sắp trảy chốn thần tiên / Cùng nhau ta phiêu bạt / Nơi nghìn trùng man mác / Theo gió theo mù, / Gửi kiếp phù du (Xin
rước cô em). Cả không gian như trầm lắng, trong mộng có tình, trong
tình có mộng, hồn thi nhân cứ từ giấc mộng này sang cơn mơ kia, đưa ta đến giấc
mộng giang hồ với những cuộc tình đứt nối của giấc mơ tình ái đầy xao xuyến vấn
vương. Song điều đáng quý hơn cả là không chỉ đắm chìm trong những nỗi sầu
riêng tư mà người thi sĩ ấy vẫn luôn day dứt mọi nỗi niềm tha thiết với cuộc
đời. Cuộc
đời người nghệ sĩ đầy những suy nghĩ trăn trở sẽ dễ mau tàn héo với sự khắc nghiệt
của thời gian. Chỉ có con tim là trẻ mãi những nỗi niềm thê thiết. Một
phút giây trắc ẩn cũng tạo nên những áng thơ đầy xót thương, ai oán: Kiếp trước hoa là thiếu nữ / Sống một kiếp vạn người thương / Chết vô duyên vùi bên đường / Một nấm đất vàng / Dãi nắng dầm sương. / Trên
nắm sương lạnh / Chồi lên một nhánh
/ Lúc canh trường / Thoảng mùi hương…(Hoa bên đường). Đó là những tình cảm chân thành, một tấm lòng
nhân ái, một con tim ấm áp tình yêu thương, biết cảm thông cho nỗi đau của
người khác…
Thơ
Lưu Trọng Lư lãng mạn, con người cảnh vật và thế giới tình yêu cứ say nồng
trong cảnh mộng. Nhiều lúc nhà thơ cứ hoài mộng mơ chìm đắm trong cõi hư huyền
do mình tạo ra, nhưng cũng chính tác giả tự mình bước ra cõi mộng ấy: Bâng khuâng chợt nhớ cảnh trần ai (Bâng khuâng). Một tâm hồn giàu xúc
cảm, một thế giới hiện hữ vô hình “Thực – Mộng”, một tấm lòng chân thật với đời
tạo nên một Lưu Trọng Lư còn mãi làm thổn thức lòng người.
Địa chỉ tác giả:
Bùi Văn Quang
THVăn BK32, Khoa Ngữ Văn, ĐH Quy Nhơn
170 An Dương, TP Quy Nhơn.
SĐT: 01676256922

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét